Thanh điệu là gì? Các công bố khoa học về Thanh điệu

Thanh điệu là cách cách phối hợp âm và nhịp trong một bản nhạc, tạo ra một dạng nhạc khác nhau. Thanh điệu có thể mang tính chất truyền thống của một dân tộc ho...

Thanh điệu là cách cách phối hợp âm và nhịp trong một bản nhạc, tạo ra một dạng nhạc khác nhau. Thanh điệu có thể mang tính chất truyền thống của một dân tộc hoặc là một phong cách âm nhạc đặc trưng của một khu vực hoặc thời đại. Các yếu tố trong thanh điệu bao gồm hệ thống âm nhạc, quy tắc về các quãng điệu, quãng trạng thái âm và cấu trúc nhịp điệu của một bản nhạc.
Thanh điệu là hệ thống các quy tắc, nguyên tắc và phong cách âm nhạc được sử dụng để tạo ra một loại âm nhạc cụ thể. Nó thường được xác định bởi các yếu tố như âm điệu, nhịp điệu, phong cách đệm và cấu trúc nhịp điệu.

1. Âm điệu: Âm điệu là việc phối hợp các âm thanh để tạo ra một dạng đặc trưng cho thanh điệu. Điều này có thể bao gồm cách sắp xếp và kết hợp các âm thanh, các quãng điệu và quãng trạng thái âm. Âm điệu có thể là truyền thống hoặc đi ngược lại với những quy tắc âm nhạc truyền thống.

2. Nhịp điệu: Nhịp điệu là sự sắp xếp các nhịp và xu hướng diễn ra trong một bản nhạc. Nó kéo dài và phân chia thời gian thành các đơn vị nhịp. Các cấu trúc và mẫu nhịp điệu khác nhau từng thanh điệu tạo ra các cảm nhận và phong cách riêng.

3. Phong cách đệm: Phong cách đệm là cách sử dụng các nhạc cụ và kỹ thuật chơi để tạo nên bầu không khí và tạo ra một môi trường âm nhạc đặc trưng của thanh điệu. Điều này bao gồm việc chọn nhạc cụ và tạo ra các mẫu âm thanh và nhịp điệu phù hợp với thanh điệu đó.

4. Cấu trúc nhịp điệu: Cấu trúc nhịp điệu là cách các yếu tố âm nhạc được sắp xếp và xây dựng trong một bản nhạc. Nó bao gồm việc xác định các phần của bài hát, sự phát triển của nhịp điệu và cách các phần được kết hợp lại để tạo thành một tổng thể.

Các thanh điệu có thể khác nhau theo quốc gia, văn hóa, dân tộc hoặc thời đại. Ví dụ, âm nhạc cổ điển Baroque có một thanh điệu đặc trưng với cấu trúc nhịp điệu phức tạp và sử dụng nhiều nhạc cụ thanh nhạc đồng đều, trong khi âm nhạc dân gian Latin có một thanh điệu năng động và sử dụng nhiều nhạc cụ gốc dân tộc.
Thanh điệu là cách biểu đạt và sắp xếp âm nhạc trong một cấu trúc thanh nhất định. Nó xác định phong cách và tạo ra nhận thức đặc trưng cho một dạng nhạc cụ thể hoặc một vùng địa lý. Dưới đây là một số chi tiết cụ thể về các yếu tố trong thanh điệu:

1. Hệ thống âm nhạc: Mỗi thanh điệu có thể sử dụng một hệ thống âm nhạc riêng biệt, bao gồm các nốt nhạc, quãng điệu, bộ chỉnh và các quy tắc phối hợp âm. Ví dụ, nhạc cụ piano có một hệ thống định tuyến âm nhạc là 12 nốt trong một ổn định nhất định.

2. Quãng điệu: Quãng điệu là các khoảng cách giữa các nốt nhạc trong một thanh điệu. Quãng điệu có thể là cố định trong một hệ thống như âm nhạc cổ điển Baroque, hoặc có thể linh hoạt và biến đổi trong âm nhạc đương đại.

3. Quãng trạng thái âm: Quãng trạng thái âm là cách mà các nốt nhạc được phối hợp trong một thanh điệu. Nó xác định cảm giác tổng thể của nhạc phẩm, có thể là trầm buồn, vui tươi hoặc tràn đầy năng lượng. Quãng trạng thái âm có thể định nghĩa bởi một hệ thống âm nhạc truyền thống hoặc tùy thuộc vào thẩm mỹ và ý thức của nhà soạn nhạc.

4. Cấu trúc nhịp điệu: Cấu trúc nhịp điệu xác định cách các nhịp và các mẫu nhịp điệu được sắp xếp trong một bài hát. Nó xác định sự phát triển của bài hát từ phần giới thiệu, phần giao đoạn, phần chính, phần diễn đàn và phần kết thúc. Cấu trúc nhịp điệu cũng có thể bao gồm các thay đổi tempo, động dộng và sự biến đổi nhịp điệu.

Các thanh điệu khác nhau trên thế giới có sự đa dạng về hệ thống âm nhạc, nhịp điệu, phong cách đệm và cấu trúc nhịp điệu. Có nhiều loại thanh điệu như thanh điệu cổ điển, thanh điệu dân gian, thanh điệu nhạc Jazz, thanh điệu nhạc Rock, thanh điệu nhạc Latin và nhiều hơn nữa. Mỗi loại thanh điệu mang đến một trải nghiệm âm nhạc riêng biệt và tạo ra nhận thức không thể nhầm lẫn cho người nghe.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thanh điệu":

Các tế bào gốc trung mô Dịch bởi AI
Journal of Orthopaedic Research - Tập 9 Số 5 - Trang 641-650 - 1991
Tóm tắt

Việc hình thành xương và sụn trong phôi và quá trình sửa chữa và thay thế ở người lớn liên quan đến thế hệ của một số lượng nhỏ tế bào được gọi là tế bào gốc trung mô. Những tế bào này phân chia, và thế hệ con của chúng trở nên gắn kết với một con đường kiểu hình đặc trưng cụ thể, một dòng tế bào với các bước riêng biệt và, cuối cùng, các tế bào giai đoạn cuối tham gia vào việc chế tạo một loại mô đặc trưng, chẳng hạn như sụn hoặc xương. Các kích thích địa phương (các yếu tố ngoại sinh) và tiềm năng gen (các yếu tố nội sinh) tương tác ở mỗi bước của dòng tế bào để kiểm soát tỷ lệ và kiểu hình đặc trưng của các tế bào trong mô đang hình thành. Nghiên cứu về các tế bào gốc trung mô này, dù được phân lập từ phôi hay người lớn, cung cấp cơ sở cho sự xuất hiện của một công nghệ điều trị mới liên quan đến việc sửa chữa tế bào tự thân. Việc phân lập, mở rộng phân bào và giao hàng hướng đến vị trí của các tế bào gốc tự thân có thể điều chỉnh quá trình sửa chữa nhanh chóng và đặc hiệu của các mô xương.

#tế bào gốc trung mô #h-----hình thành xương và sụn #sửa chữa mô xương #điều trị tế bào tự thân #phân lập tế bào gốc
Sự tương tác của thụ thể ức chế miễn dịch Pd-1 bởi một thành viên mới trong họ B7 dẫn đến sự điều hòa âm tính của sự kích hoạt tế bào lympho Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 192 Số 7 - Trang 1027-1034 - 2000

PD-1 là một thụ thể ức chế miễn dịch được biểu hiện bởi các tế bào T hoạt hóa, tế bào B và các tế bào trung mô. Chuột thiếu PD-1 biểu hiện sự phá vỡ sự dung nạp ngoại biên và cho thấy nhiều đặc điểm tự miễn dịch. Chúng tôi báo cáo rằng ligand của PD-1 (PD-L1) là một thành viên của họ gen B7. Sự tương tác giữa PD-1 và PD-L1 dẫn đến sự ức chế sự phát triển của tế bào lympho và tiết cytokine trung gian qua thụ thể tế bào T. Hơn nữa, tín hiệu PD-1 có thể ức chế ít nhất mức độ đồng kích hoạt CD28 tối ưu. PD-L1 được biểu hiện bởi các tế bào trình diện kháng nguyên, bao gồm monocyte trong máu ngoại biên của con người được kích thích bởi interferon γ, và các tế bào dendritic hoạt hóa của con người và chuột. Ngoài ra, PD-L1 cũng được biểu hiện trên các mô không hạch như tim và phổi. Mức độ tương đối của PD-L1 ức chế và tín hiệu đồng kích hoạt B7-1/B7-2 trên các tế bào trình diện kháng nguyên có thể xác định mức độ kích hoạt tế bào T và do đó ngưỡng giữa dung nạp và tự miễn dịch. Sự biểu hiện của PD-L1 trên các mô không hạch và khả năng tương tác của nó với PD-1 có thể quyết định mức độ phản ứng miễn dịch tại các vị trí viêm nhiễm.

Chuyển đổi tế bào T CD4+CD25− T naiv thành tế bào T điều hòa CD4+CD25+ thông qua sự kích thích của TGF-β đối với yếu tố phiên mã Foxp3 Dịch bởi AI
Journal of Experimental Medicine - Tập 198 Số 12 - Trang 1875-1886 - 2003

Các tế bào T điều hòa CD4+CD25+ (Treg) đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự dung nạp miễn dịch. Một câu hỏi quan trọng là liệu Treg có thể chỉ được tạo ra trong tuyến ức hay có thể phân biệt từ các tế bào T CD4+CD25− naiv ở ngoại biên. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày những chứng cứ mới cho thấy việc chuyển đổi các tế bào T CD4+CD25− naiv ở ngoại biên thành các tế bào bất hoạt/ức chế có dấu hiệu CD25+, CD45RB−/thấp và CTLA-4 nội bào+ có thể đạt được thông qua kích thích đồng thời với thụ thể tế bào T (TCR) và yếu tố tăng trưởng chuyển đổi β (TGF-β). Mặc dù gần đây yếu tố phiên mã Foxp3 đã được chứng minh là liên quan đến sự phát triển của Treg, các tác nhân sinh lý để biểu hiện gen Foxp3 vẫn còn là một bí ẩn. TGF-β kích thích biểu hiện gen Foxp3 trong các tế bào T CD4+CD25− naiv bị thách thức bởi TCR, điều này khiến chúng chuyển sang kiểu hình tế bào T điều hòa với khả năng ức chế miễn dịch mạnh mẽ. Những tế bào bất hoạt/ức chế đã chuyển đổi này không chỉ không phản ứng với sự kích thích TCR và không sản xuất cytokine tế bào T hỗ trợ 1 hoặc 2, mà chúng còn biểu hiện TGF-β và ức chế sự phát triển bình thường của tế bào T trong ống nghiệm. Quan trọng hơn, trong một mô hình chuyển giao tế bào TCR transgenic peptide ovalbumin, các tế bào ức chế CD4+CD25+ transgenic được chuyển đổi bởi TGF-β đã tăng sinh đáp ứng với việc tiêm chủng và ức chế sự mở rộng của tế bào T CD4+ naiv đặc hiệu kháng nguyên trong cơ thể sống. Cuối cùng, trong một mô hình hen suyễn ở chuột, việc đồng quản trị các tế bào T ức chế do TGF-β gây ra đã ngăn ngừa sự sinh bệnh dị ứng do bụi nhà gây ra trong phổi.

Phản hồi và Học tập Tự điều chỉnh: Một Tổng hợp Lý thuyết Dịch bởi AI
Review of Educational Research - Tập 65 Số 3 - Trang 245-281 - 1995

Học tập tự điều chỉnh (SRL) là yếu tố then chốt ảnh hưởng đến thành tích của học sinh. Chúng tôi giải thích cách mà phản hồi vốn có và là yếu tố quyết định chính trong các quy trình tạo thành SRL, và xem xét các lĩnh vực nghiên cứu mở rộng các mô hình hiện đại về cách thức phản hồi hoạt động trong học tập. Cụ thể, chúng tôi bắt đầu bằng việc tổng hợp một mô hình tự điều chỉnh dựa trên tài liệu giáo dục và tâm lý học hiện đại. Sau đó, chúng tôi sử dụng mô hình đó như một cấu trúc để phân tích các quy trình nhận thức có liên quan đến tự điều chỉnh, và để diễn giải và tích hợp các phát hiện từ những truyền thống nghiên cứu khác nhau. Chúng tôi đề xuất một mô hình SRL phát triển có thể bao quát các phát hiện nghiên cứu này và nổi bật hoạt động nhận thức của việc theo dõi như là trung tâm của sự tham gia nhận thức tự điều chỉnh. Mô hình này sau đó được sử dụng để xem xét lại (a) nghiên cứu gần đây về cách phản hồi ảnh hưởng đến sự tham gia nhận thức với các nhiệm vụ và (b) mối quan hệ giữa các hình thức tham gia và thành tích. Chúng tôi kết luận với một đề xuất rằng nghiên cứu về phản hồi và nghiên cứu về học tập tự điều chỉnh nên được kết hợp chặt chẽ, và rằng các khía cạnh của mô hình của chúng tôi nên được đề cập rõ ràng trong các nghiên cứu tương lai ở cả hai lĩnh vực này.

#Học tập tự điều chỉnh #phản hồi #quy trình nhận thức #sự tham gia nhận thức #thành tích học tập
Sự phát triển của não bộ tuổi vị thành niên: những tác động đến chức năng điều hành và nhận thức xã hội Dịch bởi AI
Journal of Child Psychology and Psychiatry and Allied Disciplines - Tập 47 Số 3-4 - Trang 296-312 - 2006

Thời kỳ vị thành niên là giai đoạn phát triển mạnh mẽ về hành vi, nhận thức và não bộ. Bài báo này xem xét các nghiên cứu về mô học và hình ảnh não bộ đã chứng minh những thay đổi cụ thể trong cấu trúc thần kinh trong suốt thời kỳ dậy thì và vị thành niên, phác thảo các quỹ đạo phát triển của chất xám và chất trắng. Bài báo cũng thảo luận về những tác động của sự phát triển não bộ đối với các chức năng điều hành và nhận thức xã hội trong thời kỳ dậy thì và vị thành niên. Những thay đổi ở mức độ não bộ và nhận thức có thể liên quan đến các hành vi thường thấy ở tuổi vị thành niên. Cuối cùng, một số ứng dụng khả thi cho giáo dục và chính sách xã hội cũng được xem xét một cách ngắn gọn.

Adiponectin, một thành viên mới trong họ collagen phòng thủ hòa tan, điều chỉnh âm sự phát triển của các tổ chức tiền thân myelomonocytic và chức năng của đại thực bào Dịch bởi AI
Blood - Tập 96 Số 5 - Trang 1723-1732 - 2000
Tóm tắt

Chúng tôi đã điều tra vai trò của adiponectin, một protein tiết ra đặc hiệu cho tế bào mỡ và là một thành viên mới trong họ collagen phòng thủ hòa tan, trong quá trình sinh huyết và đáp ứng miễn dịch. Adiponectin ức chế sự hình thành tổn hợp từ các đơn vị tạo thuộc địa (CFU) — granulocyte-macrophage, CFU-macrophage, và CFU-granulocyte, trong khi không có tác động đến sự phát triển của các đơn vị tạo ban đầu — erythroid hoặc CFU hỗn hợp erythroid-myeloid. Ngoài ra, adiponectin ức chế sự gia tăng tế bào của 4 trong số 9 dòng tế bào dòng bạch cầu đơn nhân nhưng không ức chế sự gia tăng của dòng tế bào hồng cầu hoặc lymphoid ngoại trừ một dòng tế bào. Những kết quả này cho thấy adiponectin chủ yếu ức chế sự phát triển của các tế bào thuộc dòng myelomonocytic. Ít nhất một cơ chế của việc ức chế sự tăng trưởng là sự kích thích apoptosis vì điều trị các dòng tế bào leukemia myelomonocytic cấp tính bằng adiponectin kích thích sự xuất hiện của các đỉnh subdiploid và sự phân mảnh DNA oligonucleosomal. Ngoài việc ức chế sự phát triển của các tổ chức tiền thân myelomonocytic, adiponectin ức chế các chức năng của đại thực bào trưởng thành. Điều trị các đại thực bào nuôi cấy với adiponectin làm giảm đáng kể hoạt động thực bào của chúng và sản xuất yếu tố hoại tử khối u α do lipopolysaccharide gây ra. Việc ức chế thực bào bởi adiponectin được trung gian bởi một trong các thụ thể bổ sung C1q, C1qRp, vì chức năng này hoàn toàn bị loại trừ khi bổ sung một kháng thể đơn dòng chống C1qRp. Những quan sát này cho thấy adiponectin là một chất điều chỉnh tiêu cực quan trọng trong sinh huyết và hệ thống miễn dịch và nêu bật khả năng rằng nó có thể tham gia vào việc chấm dứt các phản ứng viêm thông qua các chức năng ức chế của nó.

Tác động kết hợp của nồng độ triglyceride và cholesterol LDL và HDL trong huyết thanh đối với nguy cơ bệnh tim mạch vành trong Nghiên cứu Tim mạch Helsinki. Những hàm ý cho điều trị. Dịch bởi AI
Ovid Technologies (Wolters Kluwer Health) - Tập 85 Số 1 - Trang 37-45 - 1992
NỀN TẢNG

Chúng tôi đã nghiên cứu tác động kết hợp của mức triglyceride và lipoprotein cholesterol nền đối với tỷ lệ xuất hiện các điểm cuối tim trong nhóm thử nghiệm (n = 4,081) của Nghiên cứu Tim mạch Helsinki, một thử nghiệm ngẫu nhiên kéo dài 5 năm về phòng ngừa bệnh mạch vành sơ cấp ở nam giới trung niên bị rối loạn lipid máu. Nguy cơ tương đối (RR) được tính toán bằng cách sử dụng mô hình mối nguy tỷ lệ Cox với kỹ thuật biến giả cho phép nghiên cứu đồng thời các tổ hợp phân nhóm từ nhóm giả dược và nhóm điều trị.

PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ

Trong nhóm giả dược (n = 2,045), tỷ lệ cholesterol lipoprotein mật độ thấp (LDL-C)/cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL-C) là chỉ số dự báo đơn lẻ tốt nhất cho các sự kiện tim mạch. Tỷ lệ này kết hợp với mức triglyceride huyết thanh đã tiết lộ một nhóm nguy cơ cao: các đối tượng có tỷ lệ LDL-C/HDL-C lớn hơn 5 và triglyceride lớn hơn 2,3 mmol/l có RR là 3,8 (95% CI, 2,2-6,6) so với những người có tỷ lệ LDL-C/HDL-C nhỏ hơn hoặc bằng 5 và nồng độ triglyceride nhỏ hơn hoặc bằng 2,3 mmol/l. Ở những người có nồng độ triglyceride lớn hơn 2,3 mmol/l và tỷ lệ LDL-C/HDL-C nhỏ hơn hoặc bằng 5, RR gần bằng đơn vị (1,1), trong khi ở những người có mức triglyceride nhỏ hơn hoặc bằng 2,3 mmol/l và tỷ lệ LDL-C/HDL-C lớn hơn 5, RR là 1,2. Nhóm có nguy cơ cao với tỷ lệ LDL-C/HDL-C lớn hơn 5 và mức triglyceride lớn hơn 2,3 mmol/l thu được nhiều lợi ích nhất từ điều trị với gemfibrozil, với tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành thấp hơn 71% so với nhóm giả dược tương ứng. Trong tất cả các phân nhóm khác, mức giảm tỷ lệ mắc bệnh CHD là nhỏ hơn đáng kể.

KẾT LUẬN

Nồng độ triglyceride huyết thanh có giá trị tiên lượng, cả trong việc đánh giá nguy cơ bệnh tim mạch vành và trong dự đoán hiệu quả của điều trị gemfibrozil, đặc biệt khi được sử dụng kết hợp với HDL-C và LDL-C.

#triglyceride; lipoprotein cholesterol; LDL; HDL; coronary heart disease; risk prediction; gemfibrozil treatment; Helsinki Heart Study
Thiết kế hợp lý các chất điện xúc tác và chất xúc tác quang (điện) cho sự khử nitơ thành amoniac (NH3) trong điều kiện thông thường Dịch bởi AI
Energy and Environmental Science - Tập 11 Số 1 - Trang 45-56

Bài viết này nêu bật thiết kế hợp lý các chất điện xúc tác và chất xúc tác quang (điện) hiệu quả cho sự khử N2 thành amoniac (NH3) dưới điều kiện môi trường.

Nghệ Thuật Đáp Ứng Các Tiêu Chuẩn Palladium Trong Các Thành Phần Dược Phẩm Hoạt Động Được Điều Chế Bằng Các Phản Ứng Có Chất Xúc Tác Pd Dịch bởi AI
Advanced Synthesis and Catalysis - Tập 346 Số 8 - Trang 889-900 - 2004
Tóm tắt

Việc sử dụng các chất xúc tác có nguồn gốc từ palladium trong tổng hợp hóa chất tinh chế, các trung gian dược phẩm và thành phần dược phẩm hoạt động (APIs) đã trở nên khá phổ biến trong vài thập kỷ qua. Số lượng các phản ứng tổng hợp được xúc tác bằng palladium (cả không đối xứng và có đối xứng) hiện có đã tạo ra khả năng tiếp cận các cấu trúc phức tạp hơn với ít bước hơn và ít chất thải hơn, nhờ vào bản chất xúc tác của nhiều phương pháp. Một tác dụng phụ không mong muốn của việc sử dụng palladium là khả năng tồn tại các tạp chất chứa palladium trong hợp chất mong muốn sau khi tách chiết. Đây là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với ngành công nghiệp dược phẩm do có giới hạn thấp đối với các tạp chất kim loại nặng cho phép trong chất thuốc. Do đó, nhiều phương pháp khác nhau để loại bỏ tạp chất palladium khỏi các hợp chất hữu cơ có liên quan dược phẩm đã được phát triển. Bài đánh giá này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về các phương pháp đã công bố nhưng không nhằm mục đích tổng hợp tất cả tài liệu đã công bố trong lĩnh vực nghiên cứu này.

#palladium #chất xúc tác #tổng hợp hóa học #dược phẩm #tạp chất kim loại nặng
Khám phá curcumin, một thành phần của nghệ và những hoạt động sinh học kỳ diệu của nó Dịch bởi AI
Clinical and Experimental Pharmacology and Physiology - Tập 39 Số 3 - Trang 283-299 - 2012
Tóm tắt

1. Curcumin là thành phần hoạt tính của gia vị nghệ và đã được tiêu dùng cho mục đích y học từ hàng nghìn năm nay. Khoa học hiện đại đã chỉ ra rằng curcumin điều chỉnh nhiều phân tử tín hiệu khác nhau, bao gồm các phân tử gây viêm, yếu tố phiên mã, enzym, protein kinase, protein reductase, protein mang, protein giúp tế bào sống sót, protein kháng thuốc, phân tử bám dính, yếu tố tăng trưởng, thụ thể, protein điều hòa chu kỳ tế bào, chemokine, DNA, RNA và ion kim loại.

2. Với khả năng của polyphenol này trong việc điều chỉnh nhiều phân tử tín hiệu khác nhau, curcumin đã được báo cáo là có những hoạt động đa diện. Đầu tiên được chứng minh có hoạt động kháng khuẩn vào năm 1949, kể từ đó curcumin đã được chứng minh có tính kháng viêm, chống oxy hóa, kích thích tế bào tự hủy, ngăn ngừa hóa chất, hóa trị liệu, chống tăng trưởng, phục hồi vết thương, giảm đau, chống ký sinh trùng và chống sốt rét. Nghiên cứu trên động vật đã gợi ý rằng curcumin có thể hiệu quả chống lại một loạt bệnh tật ở người, bao gồm tiểu đường, béo phì, các rối loạn thần kinh và tâm thần và ung thư, cũng như các bệnh mạn tính ảnh hưởng đến mắt, phổi, gan, thận và hệ tiêu hóa và tim mạch."

3. Mặc dù đã có nhiều thử nghiệm lâm sàng đánh giá tính an toàn và hiệu quả của curcumin đối với các bệnh tật ở người đã hoàn thành, những thử nghiệm khác vẫn đang tiếp diễn. Hơn nữa, curcumin được sử dụng như một thực phẩm chức năng ở nhiều nước, bao gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Nepal và Pakistan. Mặc dù giá thành rẻ, có vẻ được dung nạp tốt và có tiềm năng hoạt động, curcumin không được phê duyệt để điều trị bất kỳ bệnh nào ở người."

4. Trong bài báo này, chúng tôi thảo luận về sự phát hiện và các hoạt động sinh học chính của curcumin, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào hoạt động của nó ở cấp độ phân tử và tế bào, cũng như ở động vật và con người."

#curcumin #nghệ #hoạt động sinh học #cứu chữa bệnh #kháng viêm #chống oxy hóa #kháng khuẩn #thực phẩm chức năng #thử nghiệm lâm sàng #phân tử tín hiệu
Tổng số: 564   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10